image banner
Lịch sử hình thành và phát triển của xã Sơn Thủy
Sơn Thủy, quá trình hình thành và phát triển

Xã Sơn Thủy thành lập 

  Tháng 2/1966, Nhà nước ta tách một phần diện tích và dân cư bản Khe Lếch - xã Khánh Yên Thượng và các Đội sản xuất Ta Khuấn, Khe Chấn thuộc thôn Nậm Cằm, xã Nậm Dạng để thành lập xã Sơn Thủy, khi thành lập, xã Sơn Thủy có 03 bản: Khe Lếch, Ta Khuấn, Khe Chấn với khoảng 43 hộ dân, gồm 02 Hợp tác xã nông nghiệp, đó là Hợp tác xã Khe Lếch và Hợp tác xã Khuấn - Chấn[1]. Sơn Thủy chính thức có tên trên bản đồ hành chính và là đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Văn Bàn.  

1.  Điều kiện tự nhiên

Xã Sơn Thủy nằm ở phía Đông Bắc của huyện Văn Bàn, phía Đông giáp xã Tân Thượng, phía Tây giáp xã Khánh Yên Thượng, phía Nam giáp xã Chiềng Ken, phía Bắc giáp xã Võ Lao (Văn Bàn) và xã Cam Cọn (Bảo Yên). Khí hậu Sơn Thủy mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền núi phía Bắc. Mùa hè nóng, thường xuất hiện gió nóng Tây - Nam, lượng mưa trung bình từ 1.200 mm đến 1.820 mm. Mùa đông lạnh, nhiều khi có rét đậm, rét hại, có sương mù ở vùng núi cao. Nhiệt độ trung bình trong năm từ 25 đến 280 C.

Toàn xã có 5 814,46 ha đất tự nhiên. Trong đó, đất lâm nghiệp 3 809,27 ha, đất nông nghiệp là 494,20 ha[2]. Địa hình xã Sơn Thủy chủ yếu là đồi núi thấp, phù hợp để phát triển kinh tế lâm nghiệp.  

Rừng của xã Sơn Thủy có diện tích 3.109,35 ha, độ tán che phủ đạt trên 63,03%, diện tích rừng trồng 555,48 ha, loại cây trồng chủ yếu là quế, bồ đề, trẩu, xoan. Sơn Thủy có hệ thống suối chảy dọc qua toàn xã, song song với trục đường tỉnh lộ 151.

Xã Sơn Thủy giàu tài nguyên khoáng sản: Vàng sa khoáng, Apatit, sắt. Mỏ sắt Quý Xa là mỏ quặng sắt lớn thứ 2 ở Việt Nam, đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm.

Hệ thống giao thông ở Sơn Thủy thuận lợi cho việc giao thương, phát triển kinh tế xã hội. Quốc lộ 279 chạy qua địa phận thôn Khe Phàn, Khe Lếch, Tam Đỉnh; tỉnh lộ 151 chạy qua địa phận các thôn còn lại. Với các dự án hạ tầng giao thông cấp Quốc gia đã, đang triển khai như: Dự án cải tạo, nâng cấp và mở rộng Quốc lộ 279 từ nút giao IC16 (đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai) kết nối với tỉnh Lai Châu, xây dựng khu Công nghiệp Võ Lao…vv là cơ hội thuận lợi để Sơn Thủy phát triển kinh tế, xã hội.

2. Địa danh hành chính

Năm 1966, Nhà nước tách một phần diện tích và cư dân bản Khe Lếch thuộc xã Khánh Yên Thượng và bản Ta Khuấn, Khe Chấn thuộc xã Nậm Dạng để thành lập xã Sơn Thủy. Tháng 12/1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa V ban hành Nghị quyết hợp nhất một số tỉnh thành những đơn vị hành chính với quy mô phù hợp. Trong đó ba tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Huyện Văn Bàn trở thành một huyện của tỉnh Hoàng Liên Sơn. Khi đó, xã Sơn Thủy, huyện Văn Bàn thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn. Đến năm 1991, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII được tổ chức vào tháng 8/1991, đã quyết định tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái. Từ 01/10/1991, xã Sơn Thủy, huyện Văn Bàn thuộc tỉnh Lào Cai.

Trước năm 1996, xã Sơn Thủy có 14 đội sản xuất. Từ năm 1996, thực hiện mô hình thôn bản, Sơn Thủy có 14 thôn bản, gồm các thôn: Đội 1 Khe Chấn, Đội 2 Khe Chấn, Đội 3 Khe Van, Đội 4 Ta Khuấn, Đội 1 Thẳm Pha, Đội 2 Ba Hòn, Đội 3 A, Đội 3 B, Đội 5 Khe Phàn, Đội 4 Khe Lếch, Đội 6 Thác Dây, Đội 7 Tam Đỉnh, Đội 7 B, Đội 8 Khe Hồng với khoảng 555 hộ dân 3137 nhân khẩu. Năm 2018, thực hiện chủ trương sáp nhập thôn theo quyết định số 2207/QĐ-UBND, ngày 16/9/2018 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai, xã Sơn Thủy còn 12 thôn. Năm 2019 thực hiện chủ trương sáp nhập thôn theo quyết định số 2133/QĐ-UBND, ngày 17/7/2019 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Lào Cai xã Sơn Thủy còn 08 thôn, gồm: thôn Ta Khuấn, Khe Chấn 1, Khe Nhòi, Khổi Nghè, Khe Phàn, Khe Lếch, Thác Dây, Tam Đỉnh.

3. Cư dân, văn hóa xã Sơn Thủy

Khi mới thành lập, xã Sơn Thủy có 3 dân tộc gồm Xa Phó, Dao, Tày. Năm 1989, một bộ phận dân cư dân tộc Mông chuyển từ huyện Bắc Hà đến định cư tại đây. Hiện nay (tháng 6/2024), trên địa bàn xã Sơn Thủy có 05 dân tộc chung sống, trong đó dân tộc Xa Phó (PLá) là chủ yếu chiếm 40,6%, dân tộc Dao chiếm 17,5%, dân tộc Mông chiếm 16,6%, dân tộc Kinh chiếm 14,1%. Dân tộc Tày chiếm 10,8%. Toàn xã có 765 hộ với 3.696 nhân khẩu, trong đó hộ nghèo 258/765 hộ chiếm 33,72%; cận nghèo 50 hộ, chiếm 6,53%; thu nhập bình quân đầu người 30,29 triệu đồng/người/năm.

Nơi đây có nền văn hóa lâu đời, phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa, phong tục tập quán riêng với nhiều loại hình khác nhau. Nền văn hóa đặc trưng ở Sơn Thủy là văn hóa dân tộc Xa Phó (Phù Là), Dao, Mông.

Người dân Xa Phó thuộc nhóm người Phù Lá, có tỷ lệ dân số cao nhất ở Sơn Thủy có nhiều nét văn hóa độc đáo, từ trang phục, ẩm thực, nhà ở, đến sinh hoạt văn hóa. Nhà ở của người Xa Phó trước đây chủ yếu là nhà sàn, từ khi chuyển xuống vùng thấp ở làm nhà trệt. Kinh tế chủ yếu dựa vào làm nương kết hợp với kinh tế vườn rừng và phát triển nghề thủ công truyền thống (đan, thêu). Nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Xa Phó ở Lào Cai là  đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia năm 2014 về “Tri thức dân gian”.  

Người Xa Phó có nhiều lễ hội như: Tết Nguyên đán (Khùi sì mờ), Lễ quét thôn (A lềnh gì tờ), Tết cốm mới (Máu giá và), Lễ cơm mới (Giày xí mà hoặc Già sợ da). Lễ hội của người Xa Phó, tiêu biểu nhất là Lễ mừng cơm. Đây là lễ hội độc đáo được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai phối hợp với huyện Văn Bàn tổ chức phục dựng, tổ chức hằng năm vào tháng 8 hoặc tháng 10 âm lịch. Nhạc cụ tiêu biểu của dân tộc Xa Phó là trống được bưng bằng da thú, gồm: trống đại, trung, tiểu thường dùng trong lễ hội và việc liên lạc bằng âm thanh của mỗi gia đình. Các loại nhạc cụ khá phổ biến là bộ hơi gồm: Khèn bầu (ma nhí) và các loại tiêu, sáo… đặc biệt là sáo mũi (cúc kẹ) được nghệ nhân người Xa Phó tự chế tác và đi biểu diễn tại các chương trình văn hóa, văn nghệ dân gian trong và ngoài tỉnh.

 Dân tộc Dao xã Sơn Thủy có nền văn hóa dân tộc đặc sắc, đa dạng. Các Lễ hội truyền thống: Lễ cúng làng, Lễ cúng rừng, Lễ cúng cơm mới.... Tín ngưỡng dân gian thờ cúng tổ tiên, Lễ Cấp sắc, Lễ Làm chay vẫn được Nhân dân duy trì. Lễ Cấp sắc hay còn gọi là Lễ Thành đinh, Lễ Lập tịch mang ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của người đàn ông trong cộng đồng. Bên cạnh lễ cấp sắc, dân tộc Dao còn có lễ Pút Tồng. Năm 2013, nghi lễ này đã được Bộ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.

Người Dao đỏ ở Sơn Thủy có trang phục độc đáo, rực rỡ, màu sắc chủ đạo là đỏ và đen. Người Dao có tiếng nói, chữa viết riêng (chữ Nôm Dao).  

Trong bốn ngành chính là Mông Hoa (Hmông Lềnh), Mông Đen (Hmông Đú), Mông Xanh (Hmông Chúa), Mông Trắng (Hmông Đư) thì người Mông ở Sơn Thủy chủ yếu thuộc ngành Mông Trắng, chiếm 16,6% dân số. Họ có nền văn hóa đa dạng, phong phú về nhà ở, trang phục, ẩm thực, dân ca, tín ngưỡng, lễ hội. Năm 2022 nghệ thuật múa khèn của người Mông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 65/QĐ-BVHTTDL ngày 12 /01/2022.

Dân tộc Kinh (14,1%) và dân tộc Tày (10,8%) ở Sơn Thủy cũng có nền văn hóa giống như ở các địa phương khác của huyện Văn Bàn, dù không chiếm đa số, song dân tộc Kinh, Tày ở đây có vai trò quan trọng trong sự đa dạng về văn hóa của các dân tộc xã Sơn Thủy.

 4. Đặc điểm kinh tế

Kinh tế của người dân Sơn Thủy từ xa xưa mang tính chất tự cấp, tự túc. Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo, trong đó, canh tác nương rẫy là chủ yếu. Bên cạnh đó, họ còn làm vườn rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây dược liệu như sa nhân, thảo quả. Sản phẩm chủ yếu để cung cấp thực phẩm cho gia đình, làm sức kéo và lễ vật phục vụ nghi thức cúng.  

Thời Pháp thuộc, kinh tế và đời sống xã hội xã Sơn Thủy bị chi phối bởi chính sách cai trị của chính quyền thực dân, phong kiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nhân dân các dân tộc xã Sơn Thủy ra sức phát triển kinh tế nông nghiệp, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp phát triển mạnh góp phần giải quyết nạn đói và đóng góp chi viện cho miền Nam.

Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến năm 1990, nền kinh tế mũi nhọn của địa phương được xác định là kinh tế nông nghiệp chăn nuôi đại gia súc. Giai đoạn 1990 - 2000), với chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế lâm nghiệp, người dân xã Sơn Thủy phát triển kinh tế hộ gia đình gắn với trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng. Từ năm 2000 đến nay, cơ cấu nền kinh tế có sự thay đổi: Nông - Lâm nghiệp - Công nghiệp - Thương mại, dịch vụ, trong đó, kinh tế nông nghiệp được xác định có vai trò chủ yếu, kinh tế lâm nghiệp đóng vai trò chủ đạo góp phần xóa đói, giảm nghèo.  

5. Cơ cấu, tổ chức bộ máy.

Đảng bộ xã có tổng số đảng viên là 192 đảng viên, trong đó có 09 đảng viên dự bị (tỷ lệ đảng viên so với tổng số dân trên địa bàn xã 5,23%). Có 14 chi bộ trực thuộc Đảng bộ, trong đó có 08 chi bộ nông thôn, 03 chi bộ trường học, 01 chi bộ y tế, 01 chi bộ Công an xã; 01 chi bộ Quân sự xã (mới thành lập ngày 03/02/2024); có 10 chi bộ có chi ủy với 32 chi ủy viên; có 13 Đảng ủy viên; Ủy viên kiểm tra Đảng ủy có 03 đồng chí.

Theo Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 18/01/2024 của UBND huyện Văn Bàn về giao số lượng cán bộ, công chức cấp xã năm 2024. Theo đó xã Sơn Thủy được giao 20 cán bộ công chức, số biên chế CBCC hiện có mặt là 19 đạt 90%.  

            Khối Đảng, Đoàn Thể: gồm 01 Bí thư Đảng ủy (Kiêm chủ tịch HĐND xã), 02 Phó bí thư (Trong đó 01 PBT thường trực, 01 PBT kiêm Chủ tịch UBND xã), 01 Chủ tịch UBMTTQ xã, 01 Chủ tịch Hội LHPN xã, 01 Chủ tịch hội Nông dân, 01 Chủ tịch hội Cựu chiến binh, 01 Bí thư Đoàn thanh niên xã.

HĐND xã: 01 Chủ tịch HĐND xã (kiêm Bí thư Đảng ủy xã); 01 Phó chủ tịch  thường trực HĐND xã.

Số lượng, cơ cấu thành viên UBND xã gồm 4 đồng chí (01 chủ tịch UBND xã; 01 phó chủ tịch UBND xã, 01 ủy viên phụ trách quân sự, 01 ủy viên là công an xã). Chất lượng ủy viên UBND xã: về văn hóa có 04/04 đồng chí trình độ 12/12, về chuyên môn có 03 đồng chí có trình độ đại học, 01 đồng chí (Chỉ huy trưởng quân sự) đang theo học đại học chuyên ngành, về chính trị có 4/4 đồng chí trung cấp chính trị. Các ủy viên UBND xã được đào tạo cơ bản về chuyên môn, chính trị, phát huy tốt chức năng và thực hiện tốt vai trò lãnh đạo nhiệm vụ tại địa phương.

Số lượng công chức xã thực hiện theo QĐ số 19/QĐ-UBND ngày 18/01/2024 của UBND huyện Văn Bàn gồm 10 công chức (03 văn phòng, 02 địa chính, 01 tư pháp, 02 văn hóa, 01 tài chính, 01 quân sự). Chất lượng công chức xã đảm bảo về chuyên môn, nghiệp vụ, được đào tạo và sắp xếp công việc phù hợp phát huy được sở trường công tác.

Số lượng cán bộ không chuyên trách cấp xã thực hiện theo Quyết định 258/QĐ-UBND, ngày 26/2/2024 của UBND huyện Văn Bàn về việc giao số lượng người hoạt động không chuyên trách câp xã năm 2024.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy, chỉ đạo điều hành của Chính quyền, tham gia của cả hệ thống chính trị và đặc biệt sự hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo quần chúng nhân dân quyết tâm chuyển mình đưa xã Sơn Thủy trở thành một xã nông thôn mới, nâng cao đời sống nhân dân. Từ đó mức thu nhập bình quân đầu người đạt 33,1triệu đồng/người/năm (kết quả điều tra năm 2024), tổng số hộ nghèo của xã là 258/765 hộ chiếm 33,7%, hộ cận nghèo 50/765hộ chiếm 6,5%, các tuyến đường giao thông nông thôn được bê tông hóa, bộ mặt nông thôn xã Sơn Thủy ngày càng chuyển mình mạnh mẽ.



[1] Theo lời kể của đồng chí Chu Văn Trường, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Khánh Yên Thượng (7/1966 - 1986) và Ông: Phùng Văn Phây, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Nậm Dạng (1988 - 2000).

[2] Số liệu năm 2024 của UBND xã Sơn Thủy

cộng tác viên
Tin khác
Tin tức
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1